Sinh lý bệnh tai mũi họng
Ngày nay cùng với sự phát triển cao về đời sống, con người ngày càng chú trọng tới chất lượng cuộc sống, điều này cũng giải thích vì sao số bệnh nhân đến khám sinh lý bệnh tai mũi họng ngày càng đông.
Quan hệ với nội khoa.
Nội tiêu hoá.
Khi bệnh nhân sinh lý bệnh tai mũi họng, các chất xuất tiết như: đờm, dãi, nước mũi vv…là những chất nhiễm khuẩn khi nuốt vào sẽ gây rối loạn tiêu hoá. Hơn nữa hệ tiêu hoá có hệ thống hạch lympho ở ruột có cấu tạo giống như ở họng vì vậy mỗi khi họng bị viêm thì các hạch lympho ở ruột cũng sưng theo gây nên tăng nhu động ruột.
Nội tim, thận, khớp.
Khi viêm nhiễm như viêm amyđan mãn tính, bản thân amyđan trở thành một lò viêm tiềm tàng (focalinfection), bệnh sẽ thường xuyên tái phát khi gập điều kiện thuận lợi thông qua cơ chế tự miễn dịch sẽ gây ra các bệnh như viêm cầu thận, viêm khớp và các bệnh về tim. Giải quyết được các lò viêm như cắt bỏ amiđan sẽ góp phần điều trị các bệnh trên.
Thần kinh.
Các bệnh viêm xoang, viêm tai thường bị đau đầu thậm chí gây suy nhược thần kinh. Đặc biệt trong ung thư vòm triệu chứng đau đầu chiếm tới 68 – 72% các trường hợp. Ung thư giai đoạn muộn bệnh nhân thường xuyên bị liệt các dây thần kinh sọ não.
Nội huyết học.
Bệnh nhân giai đoạn cuối trong các bệnh về máu thường bị viêm loét họng dữ dội chảy máu lớn phải xử trí cầm máu. Bệnh nhân trong phẫu thuật TMH thường phải kiểm tra kỹ hệ thống đông máu tuy nhiên đôi khi thông qua cơ chế dị ứng miễn dịch xuất hiện chứng đông máu rải rác ở vi mạch gây chảy máu ồ ạt phải xử trí nội khoa mới được.
Nhi khoa.
Sinh lý bệnh tai mũi họng gắn bó chặt chẽ với khoa nhi là do hầu hết các bệnh lý khoa nhi đều liên quan chặt chẽ với TMH, ví dụ như: Do các cháu nhỏ, đặc biệt sơ sinh không biết khạc đờm, xì mũi mỗi khi các cháu bị viêm mũi họng, viêm V.A và amiđan dễ gây ra viêm đường hô hấp (Tỷ lệ viêm khá cao 50% trong các cháu đều mắc bệnh TMH
Truyền nhiễm.
Hầu hết các bệnh truyền nhiễm như sởi, ho gà, cúm v.v… đều có biểu hiện đầu tiên ở các cơ quan TMH. Bệnh bạch hầu thường khởi phát bằng bạch hầu ở họng. Chảy mũi là triệu chứng thường gặp trong các bệnh bạch hầu, sốt rét, bệnh do leptospira.
Với khoa lao và bệnh phổi.
Sinh lý bệnh tai mũi họng là cửa ngõ của đường hô hấp, là đường hô hấp trên do đó có mối quan hệ bệnh lý khá chặt chẽ. Lao thanh quản thường là thứ phát sau lao phổi. Dị ứng đường hô hấp.
Quan hệ với chuyên khoa răng hàm mặt.
RHM là một khoa cận kề với TMH và các bệnh lý có liên quan chặt chẽ như: trong xử trí đa chấn thương, trong phẫu thuật thẩm mỹ v.v…Trong bệnh lý ung thư đầu mặt cổ, trẻ em có dị dạng bẩm sinh. Viêm xoang hàm do răng ( răng sâu, răng mọc lạc chỗ). Viêm khớp thái dương hàm gây ra nhức đầu, ù tai.
Quan hệ với chuyên khoa mắt.
Bệnh lý của khoa mắt liên quan chặt chẽ với khoa TMH đặc biệt trong viêm xoang sau gây viêm thần kinh thị giác hậu nhãn cầu. Nếu điều trị xoang phục hồi thì thị lực cũng phục hồi. U nhầy xoang trán: u to dần đẩy lồi nhãn cầu. Viêm xoang sàng có thể xuất ngoại ở góc trong của mắt dễ nhầm với viêm túi lệ.
Quan hệ với chuyên khoa thần kinh sọ não.
Các khối u tai trong (u dây thần kinh số 8), u xoang bướm v.v…
Trong chấn thương võ nên sọ :
– Vỡ nền sọ trước: chảy máu mũi dữ dội.
– Vỡ nền sọ giữa: chảy máu tai, liệt mặt, điếc.